Ngôn ngữ
Không có dữ liệu
Thông báo
Không có thông báo mới
413 Từ
隊
Đội quân, phép nhà binh quân bộ và quân pháo thủ thì cứ 126 người gọi là một đội, quân kị mã thì 56 người là một đội. Như đội ngũ [隊伍]. Phàm xếp bày thành hàng, thành đàn đều gọi là đội. Như trạm đội [站隊] đứng vào hàng.
墜
Rơi, rụng. Nguyễn Du [阮攸] : Phạt tận tùng chi trụy hạc thai [伐盡松枝墜鶴胎] (Vọng Quan Âm miếu [望觀音廟]) Chặt hết cành tùng, rớt trứng hạc.
豪
Con hào, một loài thú như loài lợn. Sáng suốt, trí tuệ hơn trăm người gọi là hào. Như hào kiệt [豪傑]. Làm một người chúa trùm trong một bọn cũng gọi là hào. Như hương hào [鄉豪] người trùm trong một làng. Hào hiệp, ý khí phi thường cũng gọi là hào. Như hào cử [豪舉] làm nên việc phi thường, hào ẩm [豪飲] uống rượu khỏe hơn người, thi hào [詩豪] bậc làm thơ giỏi hơn người. Hào, cùng nghĩa với chữ [毫].
象
Con voi. Ngà voi. Như tượng hốt [象笏] cái hốt bằng ngà voi. Hình trạng, hình tượng. Như đồ tượng [圖象] tranh tượng. Nay thông dụng chữ [像]. Tượng giáo [象教] nhà Phật [佛] cho đạo Phật sau khi Phật tổ tịch rồi một nghìn năm là thời kỳ tượng giáo, nghĩa là chỉ còn có hình tượng Phật chứ không thấy chân thân Phật nữa. Khí tượng, có cái hình tượng lộ ra ngoài. Làm phép, gương mẫu. Đồ đựng rượu. Điệu múa.
像
Hình tượng. Như tố tượng [塑像] tô tượng. Giống. Như sau khi Phật tịch, chỉ còn thờ tượng giống như lúc còn, gọi là đời tượng pháp [像法].
悔
Hối hận, biết lỗi mà nghĩ cách đổi gọi là hối. Vương An Thạch [王安石] : Dư diệc hối kì tùy chi, nhi bất đắc cực hồ du chi lạc dã [予亦悔其隨之, 而不得極乎遊之樂也] (Du Bao Thiền Sơn kí [遊褒禪山記]) Tôi cũng ân hận rằng đã theo họ, không được thỏa hết cái thú vui du lãm. Phàm sự gì đã ấn định rồi mà lại định đổi làm cuộc khác cũng gọi là hối. Quẻ Hối, tên một quẻ trong kinh Dịch [易]. Một âm là hổi. Xấu, không lành. Tục gọi sự không tốt lành là hổi khí [悔氣] là do nghĩa ấy.
梅
Cây mơ, đầu xuân đã nở hoa, có hai thứ trắng và đỏ. Thứ trắng gọi là lục ngạc mai [綠萼梅], nở hết hoa rồi mới nẩy lá, quả chua, chín thì sắc vàng. Kinh Thư có câu nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai [若作和羹, 爾惟鹽梅] bằng nấu canh ăn, bui dùng muối mơ. Nay gọi quan Tể tướng là điều mai [調梅] hay hòa mai [和梅] là bởi ý đó. Kinh Thi có thơ phiếu mai [摽梅] mai rụng, nói sự trai gái lấy nhau cập thời, nay gọi con gái sắp đi lấy chồng là bởi cớ đó. Mùa. Các nơi ở phía đông nam bến bể, đầu mùa hè đã đổi gió hay mưa mà vừa gặp lúc mơ chín nên gọi mùa ấy là mai tiết [梅節].
侮
Khinh nhờn. Như khi vũ [欺侮] lừa gạt hà hiếp. Nguyễn Du [阮攸] : Nại hà vũ quả nhi khi cô [奈何侮寡而欺孤] (Cựu Hứa đô [舊許都]) Sao lại đi lừa vợ góa dối con côi người ta (nói về Tào Tháo [曹操]) ? Kẻ lấn áp. Như ngự vũ [禦侮] chống kẻ đến lấn áp mình.
敏
Nhanh nhẹn. Như mẫn tiệp [敏捷] nhanh nhẹn. Sáng suốt. Như bất mẫn [不敏] chẳng sáng suốt, lời nói tự nhún mình là kẻ ngu dốt. Gắng gỏi. Tên ngón chân cái.
繁
Nhiều. Như phồn thịnh [繁盛] nhiều nhõi đông đúc, phồn diễn [繁衍] nhung nhúc, đầy đàn, đầy lũ. Một âm là bàn. Cái dây thắng đái ngựa.
毒
Ác. Như độc kế [毒計] kế ác. Nguyễn Du [阮攸] : Bất lộ trảo nha dữ giác độc [不露爪牙與角毒] (Phản Chiêu hồn [反招魂]) Không để lộ ra nanh vuốt nọc độc. Làm hại. Như đồ độc sinh linh [荼毒生靈] làm hại giống sinh linh. Độc, vật gì làm hại được người đều gọi là độc. Như độc xà [毒蛇] rắn độc, độc duợc [毒藥] thuốc độc, v.v. Căm giận. Như phẫn độc [憤毒] căm tức lắm. Trị, cai trị. Một âm là đốc. Như quyên đốc [身毒] nước Quyên Đốc, tức là nước Thiên Trúc [天竹], (gọi là nước Ấn Độ [印度] bây giờ).
郎
Chức quan. Về đời nhà Tần [秦], nhà Hán [漢] thì các quan về hạng lang đều là sung vào quan túc vệ. Về đời sau mới dùng để gọi các quan ngoài, như thượng thư lang [尚書郎], thị lang [侍郎], v.v. Ở bên ta thì các quan cai trị thổ mán đều gọi đều gọi là quan lang. Chàng, một tiếng gọi về phía bên con trai, là cái danh hiệu tốt đẹp. Anh chàng. Vợ gọi chồng gọi là lang. Họ Lang.
浪
Sóng. Ngước lãng [謔浪] phóng túng (đùa bỡn vô lễ). Phóng lãng. Kẻ chỉ chơi bời lêu lổng không chăm chỉ làm một nghề chánh đáng gọi là lãng tử [浪子]. Mạnh lãng [孟浪] càn rở, nói càn rở. Một âm là lang. Thương Lang [滄浪] sông Thương Lang. Lang lang [浪浪] nước chảy băng băng.
銀
Bạc (Argentum, Ag); một loài kim sắc trắng dùng để đúc tiền và làm đồ trang sức. Trắng. Như ngân hạnh [銀杏] hạnh trắng. Họ Ngân.
痕
Sẹo, vết. Phàm vật gì có dấu vết đều gọi là ngân. Như mặc ngân [墨痕] vết mực. Đỗ Phủ [杜甫] : Hà thời ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can [何時倚虛幌, 雙照淚痕乾] (Nguyệt dạ [月夜]) Bao giờ được tựa màn cửa trống, (Bóng trăng) chiếu hai ngấn lệ khô ?
恨
Oán giận. Sự gì đã mất hy vọng thực gọi là hận. Như hận sự [恨事] việc đáng giận, di hận [遺恨] để sự giận lại, ẩm hận [飲恨] nuốt hận, v.v. Nguyễn Trãi [阮廌] : Anh hùng di hận kỷ thiên niên [英雄遺恨幾千年] (Quan hải [關海]) Anh hùng để lại mối hận đến mấy nghìn năm.
根
Rễ cây. Bò dưới một vật gì cũng gọi là căn. Như thiệt căn [舌根] cuống lưỡi. Căn do (nhân). Như thiện căn [善根] căn thiện, câu nói nào không có bằng cứ gọi là vô căn chi ngôn [無根之言]. Nhà Phật gọi nhãn [眼] mắt, nhĩ [耳] tai, tị [鼻] mũi, thiệt [舌] lưỡi, thân [身] thân, ý [意] ý : là lục căn [六根].
限
Giới hạn, cõi, có cái phạm vi nhất định không thể vượt qua được gọi là hạn. Như hạn chế [限制] nói về địa vị đã chỉ định, hạn kỳ [限期] hẹn kỳ, nói về thì giờ đã chỉ định. Cái bực cửa.
眼
Mắt. Cái hố, cái lỗ. Chỗ yếu điểm. Như pháp nhãn tàng [法眼藏] chỗ chứa cái yếu điểm của pháp.
退
Lui. Như thối binh [退兵] lui binh. Nhún nhường. Như thối nhượng [退讓] lui nhường. Vì thế nên từ quan về nhà cũng gọi là thối. Trừ sạch. Như bệnh thối [病退] bệnh khỏi. Tài sức suy kém đều gọi là thối. Như học nghiệp thối bộ [學業退步] việc học kém sút. Gạt bỏ. Mềm mại. Ta quen đọc là chữ thoái.
郷
quê hương. Cố hương
響
Tiếng. Vang. Tiếng động gió vang ứng lại gọi là hưởng. Có hình [形] thì có ảnh [影], có tiếng thì có vang, cho nên sự gì cảm ứng rõ rệt gọi là ảnh hưởng [影響]. Nguyễn Trãi [阮廌] : Tiêu tiêu trụy diệp hưởng đình cao [蕭蕭墜葉響庭皋] (Thu nhật ngẫu thành [秋日偶成]) Lào xào lá rụng vang ngoài sân. Dị dạng của chữ [响].
即
Tục dùng như chữ tức [卽].
節
Đốt tre, đốt cây. Đốt xương. Như cốt tiết [骨節] đốt xương, chỉ tiết [指節] đốt ngón tay, vì thế nên vỗ tay gọi là kích tiết [擊節]. Phàm sự gì có đoạn có mạch đều gọi là tiết. Như một đầu mối sự gì gọi là nhất tiết [一節], đầu mối rối beng gọi là chi tiết [枝節], văn chương có phân ra từng chương từng đoạn cũng gọi là chương tiết [章節]. Trật tự. Như cử động phải có lễ tiết, hợp lễ phép gọi là trúng tiết [中節]. Hát, múa, âm nhạc lúc mau lúc khoan có dịp gọi là ứng tiết [節] hay tiết tấu [節奏]. Cái dịp để hãm các âm nhạc cũng gọi là tiết. Thời tiết, một năm chia ra 24 tiết. Như xuân phân [春分], lập xuân [立春], v.v. để chỉ rõ khí hậu nó biến đổi như thế nào. Dè dặn, kiềm chế không cho quá độ gọi là tiết. Như tiết lao [節勞] bớt làm sự nhọc quá, tiết ai [節哀] bớt nỗi thương đi, v.v. Giảm bớt đi. Tri tiết, người biết tự ức chế mình cho hợp lễ nghĩa gọi là người có tiết tháo [節操]. Như danh tiết [名節], phong tiết [風節] đều một nghĩa ấy cả. Tục gọi đàn bà góa không đi lấy chồng là tiết phụ [節婦]. Phù tiết [符節] ngày xưa đi sứ cầm cái ấn tín của vua mình đi để làm tin gọi là phù tiết, vì thế nên sau người ta gọi sứ giả là sứ tiết [使節]. Ngày thọ của vua gọi là tiết. Thứ bực. Ngày tết. Một âm là tiệt. Lộng lẫy, cao ngất.
漁
Bắt cá, đánh cá. Âu Dương Tu [歐陽修] : Lâm khê nhi ngư [臨溪而漁] (Túy Ông đình ký [醉翁亭記]) Vào ngòi câu cá. Lấy bừa. Ngư lợi [漁利] lừa gạt lấy lời.
裏
Lần lót áo. Trong, cái gì ở trong đều gọi là lí. Dị dạng của chữ [里].
埋
Chôn. Như mai táng [埋葬] chôn cất người chết. Đám ma chôn không hợp lễ gọi là mai. Vùi xuống đất. Nguyễn Du [阮攸] : Bi tàn tự một mai hoang thảo [碑殘字沒埋荒草] (Liễu Hạ Huệ mộ [柳下惠墓]) Bia tàn chữ mất chôn vùi nơi cỏ hoang. Che lấp. Như mai phục [埋伏] núp sẵn, ẩn tích mai danh [隱跡埋名] che tung tích giấu tên tuổi, chỉ sự ở ẩn.
糧
Thức ăn, lương ăn. Thức ăn lúc đi đường gọi là lương [糧], lúc ở ngay nhà gọi là thực [食]. Nay gọi các vật dùng trong quân là lương. Thuế ruộng, tục viết là [粮]. Dị dạng của chữ [粮].
童
Trẻ thơ. Mười lăm tuổi trở lại gọi là đồng tử [童子], mười lăm tuổi trở lên gọi là thành đồng [成童]. Luận ngữ [論語] : Quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy [冠者五六人,童子六七人,浴乎沂,風乎舞雩,詠而歸] Năm sáu người vừa tuổi đôi mươi, với sáu bảy đồng tử, dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu, vừa đi vừa hát kéo nhau về nhà. Trâu dê không có sừng, núi không có cây cỏ cũng gọi là đồng. Tuổi già trụi tóc cũng gọi là đồng. Ngày xưa dùng chữ đồng [童] như chữ đồng [僮] nghĩa là thằng nhỏ. Con trai có tội phải làm đầy tớ quan gọi là đồng. Đồng đồng [童童] um tùm, rậm rạp. Nguyễn Trãi [阮廌] : Nham trung hữu tùng, Vạn cái thúy đồng đồng [岩中有松,萬蓋翠童童] (Côn sơn ca [崑山歌]) Trong núi có thông, Muôn chiếc lọng biếc um tùm.
憧
Sung sung [憧憧] lông bông ý chưa định hẳn cứ lông bông hoài gọi là sung sung. Ngu xuẩn. Một âm là tráng. Hám tráng [戅憧] hung ác.