Ngôn ngữ
Không có dữ liệu
Thông báo
Không có thông báo mới
212 Từ
尢
Cũng như chữ uông [尪].
老
Người già bảy mươi tuổi. Phàm người nào có tuổi tác đều gọi là lão. Tước vị tôn trọng cũng gọi là lão. Như nguyên lão [元老] vị trọng thần của nhà nước, trưởng lão [長老] sư cụ. Nay bè bạn chơi với nhau, trong lúc trò chuyện gọi nhau là mỗ lão [某老] cũng noi nghĩa ấy cả. Có khi dùng để nói đùa nhau. Như lão mỗ [老某] cũng như ta nói thằng cha ấy. Suy yếu. Như cáo lão [告老] cáo rằng già yếu xin thôi việc quan về nhà nghỉ. Lâu. Như lão ư kì sự [老於其事] làm việc đã lâu. Cứng rắn, tục gọi vật rắn chắc là lão. Văn viết đanh thép gọi là lão luyện [老煉] hay lão đương [老當]. Vương Bột [王勃] : Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm [老當益壯, 寧知白首之心] tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc. Ông Lý Nhĩ [李耳] nhà Chu [周] gọi là Lão tử [老子], viết Đạo Đức Kinh [道德經], là tổ Đạo giáo, nên gọi Đạo giáo là đạo Lão. Binh đóng ở ngoài đã lâu.
廴
Bước dài.
辶
Một hình thức của bộ sước [辵].
勹
Bọc.
比
So sánh, lấy sự gì cùng một loài mà so sánh nhau gọi là bỉ. Về số học dùng hai số so sánh nhau để tìm số khác gọi là bỉ lệ [比例]. Về đời khoa cử gọi kỳ thi hương là đại bỉ [大比]. Lệ, sự đã làm rồi gọi là bỉ. Đời nhà Ngụy, nhà Tấn đặt một bỉ bộ [比部] coi việc phép luật, tức như nhà tư pháp bây giờ. Nước Bỉ, nước Bỉ-lị-thì [比利時] (Belgium) ở châu Âu. Kén chọn, kén chọn chỗ hay mà theo gọi là bỉ. Một âm là bí. Thân, hùa nhau. Như bằng bí vi gian [朋比為奸] hùa nhau làm gian. Gần. Như bí lai [比來] gần nay, bí lân [比鄰] liền láng giềng, v.v. Chọi đôi, đối nhau. Như trong lối văn kinh nghĩa lấy hai vế đối nhau làm một bí. Kịp. Như bí kì phản dã [比其反也] kịp thửa trái lại vậy. Luôn. Như bí niên [比年] luôn năm, bí bí [比比] luôn luôn. Lại một âm là bì. Cao bì [皋比] da hổ, ông Trương Tái nhà Tống, ngồi trên trướng da hổ giảng kinh Dịch, vì thế đời sau gọi người giảng học là tọa ủng cao bì [坐擁皋比]. Ta quen đọc là chữ tỉ.
廾
Chắp tay.
鳥
Loài chim, con chim.
爪
Móng chân, móng tay. Trảo nha [爪牙] móng vuốt, nói bóng là các kẻ hộ vệ. Chân các giống động vật. Ngọn, cuối của một đồ vật gì.
飛
Bay. Loài chim và loài sậu cất cánh bay cao gọi là phi. Nhanh như bay. Như phi báo [飛報] báo nhanh như bay, kíp báo. Lời nói không có căn cứ. Như cái thơ giấu không ký tên gọi là phi thư [飛書], lời nói phỉ báng gọi là phi ngữ [飛語], v.v. Tiếng bổng. Cao, nói ví dụ như sự cao. Phi, phép chế thuốc hoặc dùng lửa đốt hoặc dùng nước gạn cho sạch gọi là phi.
足
Chân, chân người và các giống vật đều gọi là túc cả. Cái chân các đồ đạc cũng gọi là túc. Như đỉnh túc [鼎足] chân vạc. Bước. Như tiệp túc tiên đắc [捷足先得] nhanh bước được trước. Con em nhà thế gia gọi là cao túc [高足]. Đủ. Như túc số [足數] đủ số. Cũng đủ. Như túc dĩ tự hào [足以自豪] cũng đủ tự thích. Một âm là tú. Thái quá. Như tú cung [足恭] kính quá.
面
Mặt, là cái bộ phận gồm cả tai, mắt, miệng, mũi. Ngoài mặt. Như chánh diện [正面] mặt giữa, trắc diện [側面] mặt bên. Bề mặt, chỉ tính dài rộng lớn bé, không kể đến dày mỏng gọi là bề mặt. Ngoảnh về. Như nam diện [南面] ngoảnh về hướng nam. Tục viết là [靣].
手
Tay. Làm. Như hạ thủ [下手] bắt tay làm, nhập thủ [入手] bắt tay vào, đắc thủ [得手] làm được việc, v.v. Tài, làm nghề gì giỏi về nghề ấy gọi là thủ. Như quốc thủ [國手] tay có tài trị nước, năng thủ [能手] tay giỏi, v.v. Tự tay làm ra. Như thủ thư [手書] chính tờ tay viết, thủ nhận [手刃] chính tay đâm, v.v. Cầm.
頁
Đầu. Một tờ giấy gọi là nhất hiệt [一頁].
髟
Tóc dài lượt thượt. Cũng đọc là chư bưu.
而
Mày. Như nhi ông [而翁] cha mày. Mà, vậy, dùng làm trợ ngữ. Như nhi kim an tại [而今安在] mà nay còn đâu, dĩ nhi [已而] đã mà. Bèn, lời nói chuyển xuống. Như nhi mưu động can qua ư bang nội [而謀動干戈於邦內] bèn mưu khởi sự đánh nhau ở trong nước. Lông má.
牙
Răng to. Thử nha tước giác [鼠牙雀角] đặt điều gây sự kiện tụng. Ngà, ngà voi dùng làm đồ được, gọi tắt là nha. Như nha bài [牙牌] cái thẻ ngà. Các tướng nhỏ (ti tướng) gọi là nha tướng [牙將]. Người giới thiệu sự buôn bán gọi là nha quái [牙儈] (lái).
犬
Con chó. Tào Đường [曹唐] : Nguyện đắc hoa gian hữu nhân xuất, Miễn linh tiên khuyển phệ Lưu Lang [願得花間有人出, 免令仙犬吠劉郎] (Lưu Nguyễn động trung ngộ tiên tử [劉阮洞中遇仙子]) Mong rằng trong hoa có người ra đón, Để chó nhà tiên khỏi sủa chàng Lưu. Ngô Tất Tố dịch thơ : Dưới hoa ước có ai ra đón, Để chó nhà tiên khỏi sủa người. Nói ý hèn hạ. Kẻ dưới đối với kẻ trên có chút công lao tự nói nhún là khuyển mã chi lao [犬馬之勞] cái công chó ngựa.
牛
Con bò. Thủy ngưu [水牛] con trâu. Sao Ngưu.
弋
Bắn. Lấy. Đem binh thuyền đi tuần nã trộm giặc gọi là du dặc [游弋]. Sắc đen.
己
Can Kỉ, can thứ sáu trong mười can. Mình, đối lại với người. Như vị kỉ [爲己] chỉ vì mình, lợi kỉ [利己] chỉ lợi mình. Riêng, lòng muốn riêng.
瓜
Dưa, các thứ dưa có quả đều gọi là qua. Qua kì [瓜期] đổi thay chức việc, hẹn người này đến thay người kia gọi là qua kì. Con gái đến mười sáu tuổi gọi là phá qua [破瓜], vì chữ qua [瓜] giống hình hai chữ bát [八], tức mười sáu. Qua lý [瓜李] nói sự hiềm nghi, xỏ giầy ở ruộng dưa người ta ngờ là hái dưa, đội lại mũ ở dưới cây mận, người ta ngờ là hái mận, dẫu ngay người ta cũng ngờ rằng gian : qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan [瓜田不納履,李下不整冠]. Qua cát [瓜葛] kẻ thân thích. Hai họ không có liên thuộc gì với nhau mà vì các ngành dây dưa với nhau mới nên thân thích gọi là qua cát.
韭
Rau hẹ, là một thứ rau thơm mà cay, lá nhỏ mà dẹp. Đỗ Phủ [杜甫] : Dạ vũ tiễn xuân cửu [夜雨剪春韭] (Tặng Vệ bát xử sĩ [贈衛八處士]) Trong mưa đêm đi cắt rau hẹ mùa xuân.
麻
Đại ma [大麻] cây gai. Có khi gọi là hỏa ma [火麻] hay hoàng ma [黃麻]. Có hai giống đực và cái, giống đực gọi là mẫu ma [牡麻], giống cái gọi là tử ma [子麻]. Sang tiết xuân phân mới gieo hạt, trước sau tiết hạ chí mới nở hoa, sắc trắng xanh xanh. Gai đực có năm nhị, gai cái có một nhị. Gai đực thì khi hoa rụng hết liền nhổ, ngâm nước bóc lấy vỏ, mềm nhũn mà có thớ dài, dùng để dệt vải thưa. Gai cái thì đến mùa thu mới cắt, bóc lấy hạt rồi mới đem ngâm, dùng để dệt sô gai, vì nó đen và xù xì nên chỉ dùng làm đồ tang và túi đựng đồ thôi. Hạt nó ăn được. Hồ ma [胡麻] cây vừng, có khi gọi là chi ma [脂麻] hay du ma [油麻]. Hạt nó có hai thứ đen và trắng. Tương truyền rằng ông Trương Khiên [張騫] đem giống ở Tây Vực [西域] về, nên gọi là hồ ma.
竹
Cây trúc, cây tre, có nhiều giống khác nhau, dùng làm được nhiều việc. Sách vở, ngày xưa chưa biết làm giấy, cứ lấy sơn viết vào cái thẻ tre hay mảnh lụa, vì thế nên gọi sách vở là trúc bạch [竹帛]. Như danh thùy trúc bạch [名垂竹帛] (Tam quốc diễn nghĩa [三國演義]) tiếng ghi trong sách vở. Tiếng trúc, một thứ tiếng trong bát âm. Như cái tiêu, cái sáo, v.v.
行
Bước đi, bước chân đi. Làm ra, thi hành ra. Đi. Như tống hành [送行] đưa đi, từ hành [辭行] từ đi v.v. Vua chết gọi là đại hành [大行]. Không định hẳn, tạm thì. Như hành thự [行署] dinh quan đóng tạm. Cái để dùng, của dùng. Như ngày xưa gọi vàng, gỗ, nước, lửa, đất là ngũ hành [金木水火土為五行] ý nói là năm thứ ấy là cái người ta cần dùng hằng ngày vậy. Trải qua. Như nhất hành tác lại [一行作吏] làm quan qua một lần. Sắp tới, dần đến. Như hành niên ngũ thập [行年五十] tuổi gần đến năm mươi, hành tương tựu mộc [行將就木] sắp chết. Bài hát. Như tràng ca hành [長歌行] bài hát dài. Lối chữ hành, lối chữ hơi đá thảo gọi là hành. Đường sá. Biến đổi luôn không ngừng. Nhà Phật gọi cái ý thức luôn luôn trôi đi là hành uẩn [行蘊]. Một âm là hạnh. Đức hạnh, nết na, còn ở tâm là đức [德], thi hành ra là hạnh [行]. Như độc hạnh [獨行] đức hạnh hơn người. Vì thế nhà Phật nói sửa mình trong sạch để thờ Phật gọi là tu hạnh [修行]. Lại một âm là hàng. Hàng lối. Phép binh ngày xưa cứ 25 người là nhất hàng [一行] một hàng, vì thế gọi binh lính là hàng ngũ [行伍]. Một dòng chữ cũng gọi là một hàng [一行]. Cửa hàng. Một chỗ chứa các đồ hàng để vận tải, buôn bán cho tiện gọi là hàng sạn [行棧] hay hàng gia [行家]. Nghề nghiệp của trăm nghề. Người đồng nghiệp gọi là đồng hàng [同行], làm việc không khéo gọi là ngoại hàng [外行]. Một âm nữa là hạng. Hạng thứ. Như hạng nhất [行一], hạng nhị [行二], v.v. Hàng lũ. Gọi các người tôn trưởng của bạn mình là trượng nhân hạng [仗人行]. Hạng hạng [行行] cứng cỏi.
走
Chạy, cất chân đi lại đều gọi là tẩu. Vì thế cho nên lo việc cả hai bên gọi là bôn tẩu [奔走]. Trốn. Như sách Mạnh Tử [孟子] nói khí giáp duệ binh nhi tẩu [棄甲曳兵而走] bỏ áo giáp kéo đồ binh mà trốn. Tiếng nói khiêm, cũng như nghĩa chữ bộc [僕]. Vật thể di động cũng gọi là tẩu. Như tẩu bút [走筆] nguẫy bút. Mất hình dạng cũ, sai kiểu, mất lối thường trước cũng gọi là tẩu. Như tẩu bản [走版] bản khác, không phải bản cũ.
車
Cái xe. Hàm răng. Như phụ xa tương y [輔車相依] má và hàm răng cùng nương tựa nhau. Phàm cái gì dùng sức xoay vần cho đỡ sức người đều gọi là xa. Như thủy xa [水車] xe nước, phưởng xa [紡車] cái guồng xe sợi, v.v. Họ Xa.
毛
Lông. Giống thú có lông kín cả mình nên gọi là mao trùng [毛蟲]. Râu tóc người ta cũng gọi là mao. Như nhị mao [二毛] người đã hai thứ tóc (tuổi tác). Loài cây cỏ. Như bất mao chi địa [不毛之地] đất không có cây cỏ. Tục gọi đồ gì làm thô kệch không được tinh tế gọi là mao. Phàm nói vật gì nhỏ mà nhiều cũng gọi là mao. Như mao cử tế cố [毛舉細故] cử cả những phần nhỏ mọn. Nhổ lông. Tục dùng thay chữ hào [毫] nói về hào ly [毫釐]. Một âm là mô. Không.
肉
Thịt. Là do chất như lòng trắng trứng gà cấu tạo nên, là chất mềm chơn để bao bọc gân xương cho các giống động vật. Nay ta gọi trong họ thân là cốt nhục [骨肉] nghĩa là cùng một ông cha sinh đẻ san sẻ ra vậy. Phần xác thịt. Như nhục dục [肉慾] cái ham muốn về xác thịt. Như rượu chè trai gái, v.v. Cũng viết là [肉欲]. Nhục hình [肉刑] hình phạt đến da thịt. Như kìm kẹp xẻo đánh, v.v. đều nói về ngoài xác thịt cả. Những kẻ vô học vô tri gọi là hành thi tẩu nhục [行尸走肉] thịt chạy thây đi, nói kẻ chỉ có phần xác mà không có tinh thần vậy. Thịt ăn. Các thứ thịt giống vật có thể ăn được đều gọi là nhục. Người giầu sang gọi là nhục thực [肉食]. Lấy thế lực mà ăn hiếp người gọi là ngư nhục [魚肉]. Như ngư nhục hương lý [魚肉鄉里] hà hiếp làng mạc. Cùi, cùi các thứ quả. Một âm là nhụ. Bắp thịt nở nang, mập mạp. Cũng đọc là chữ nậu.